Những nguy cơ biến món cá bổ dưỡng trở nên độc hại

Có nhiều loài cá – một vài trong số đó đã “kết thúc” cuộc đời trên đĩa của chúng ta – đang hiển thị mức độ methylmercury (chất metyl thủy ngân) ngày càng tăng. Hãy cẩn thận.

Đó là một chất rất độc hại. Vì sao chuyện này đang diễn ra? Các nhà nghiên cứu từ Đại học Harvard tin rằng họ có thể có câu trả lời.

hình ảnh minh họa

Methylmercury là một dạng thủy ngân và là một hợp chất rất độc hại. Nó thường hình thành thông qua sự tiếp xúc của thủy ngân với vi khuẩn từ các môi trường khác nhau.

Con người thường xuyên tiếp xúc với methylmercury bằng cách ăn cá và hải sản, vì nhiều loài động vật sống dưới nước cuối cùng cũng sẽ ăn phải chất này.

Nhiều loài cá sống ở biển cũng tiếp xúc với methylmercury thông qua chế độ ăn uống của chúng. Tảo hấp thụ methylmercury hữu cơ, vì vậy cá ăn tảo cũng sẽ hấp thụ chất độc hại này.

Sau đó, khi những con cá lớn hơn ở đầu chuỗi thức ăn ăn những con cá này, chúng cũng tích lũy methylmercury. Theo cách này, cá và các sinh vật khác đứng đầu chuỗi thức ăn cuối cùng sẽ tích lũy ngày càng nhiều hợp chất độc hại này.

Việc tiếp xúc với methylmercury qua cá và động vật có vỏ luôn là mối quan tâm. Một số nhà nghiên cứu tin rằng mức độ các hợp chất độc hại có trong loại lương thực chính của nhiều món ăn trên thế giới đang gia tăng.

Hiện tại, theo nghiên cứu gần đây, khoảng 82% trường hợp phơi nhiễm với methylmercury mà người tiêu dùng ở Hoa Kỳ mắc phải đến từ việc ăn hải sản.

Trong một nghiên cứu mới, kết quả xuất hiện trên tạp chí Nature, các nhà nghiên cứu từ Trường Kỹ thuật và Khoa học Ứng dụng Harvard John A. Paulson ở Cambridge, MA, và Trường Y tế Công cộng Harvard TH Chan ở Boston, MA, cho rằng mức độ methylmercury trong cá như cá tuyết, cá ngừ vây xanh Đại Tây Dương và cá kiếm đang tăng lên.

Nguyên nhân là gì? Theo nhóm nghiên cứu, chúng ta nên đổ lỗi cho những tác động xấu từ sự biến đổi khí hậu toàn cầu.

“Nghiên cứu này là một tiến bộ lớn trong việc tìm hiểu cách thức và lý do tại sao các loài săn mồi đại dương, như cá ngừ và cá kiếm, đang tích lũy thủy ngân”, giáo sư cấp cao Elsie Sunderland nói.

Tầm quan trọng của con mồi

Trong nghiên cứu của mình, các nhà nghiên cứu đã phân tích dữ liệu trị giá 30 năm về hệ sinh thái của Vịnh Maine ở Đại Tây Dương. Trong một phần của phân tích này, họ đã nghiên cứu những gì hai loài săn mồi biển – cá tuyết Đại Tây Dương và cá nhám gai – đã ăn từ những năm 1970 đến 2000.

Các phát hiện chỉ ra rằng đối với cá tuyết, nồng độ methylmercury đã giảm 6% – 20% kể từ những năm 1970. Ngược lại, mức độ của hợp chất độc hại này đã tăng 33 – 61% trong cá nhám gai (Spiny Dogfish: có cách gọi khác là cá mập chó, cá chó, cá nhám góc).

Các nhà nghiên cứu giải thích sự tương phản thú vị này bằng cách xem xét những gì mỗi loài có thể ăn trong suốt nhiều thập kỷ. Nhóm nghiên cứu lưu ý rằng vào những năm 1970, quần thể cá trích – con mồi của cả cá tuyết và cá nhám – đã giảm đáng kể ở Vịnh Maine do đánh bắt quá mức.

Do đó, mỗi loài động vật ăn thịt phải chuyển sang các nguồn thức ăn khác. Cá tuyết bắt đầu săn mồi chủ yếu trên cá trích mình dày và cá mòi, những loài cá nhỏ hơn thường có hàm lượng methylmercury rất thấp. Do đó, mức độ methylmercury của cá tuyết cũng giảm.

Đồng thời, cá nhám gai đã chuyển sang săn mồi là mực và các loài động vật thân mềm khác, mà chúng cũng chính là động vật ăn thịt nên có mức độ methylmercury cao hơn cá trích. Chế độ ăn mới này cũng dẫn đến sự gia tăng nồng độ methylmercury trong cá nhám. (Dogfish có cách gọi khác là cá nhám góc, cá chó, cá mập chó).

Những nguy cơ biến món cá bổ dưỡng trở nên độc hại - Ảnh 2.
Cá nhám gai

Tuy nhiên, vào những năm 2000, dân số cá trích ở Vịnh Maine đã trở lại bình thường. Dần dần, các thứ tự lần lượt tương ứng: Mức độ methylmercury trong cá tuyết tăng trở lại, trong khi mức độ methylmercury của cá nhám giảm.

Nước biển nóng lên làm tăng mối đe dọa

Các nhà nghiên cứu ban đầu cảm thấy khó khăn khi tính đến mức gia tăng methylmercury trong cá ngừ khi chỉ nhìn vào những gì những con cá này ăn. Tuy nhiên, họ đã tìm thấy một mối liên kết khác.

Cá ngừ là một loài di cư bơi với tốc độ rất nhanh. Do đó, chúng sử dụng nhiều năng lượng và cần ăn nhiều hơn để duy trì tốc độ và sự nhanh nhẹn.

“Những con cá này […] ăn nhiều hơn với kích thước của chúng, nhưng vì chúng bơi rất nhiều, chúng không có sự tăng trưởng bù đắp để làm giảm gánh nặng cơ thể. Vì vậy, bạn có thể mô hình hóa điều đó như một chức năng”, tác giả đầu tiên Amina Schartup giải thích, khi nói về thông tin mà cô và các đồng nghiệp của mình cần để xây dựng mô hình mức độ methylmercury giữa các loài cá.

Nhưng, cũng có một yếu tố quan trọng khác ảnh hưởng đến việc cá cần bao nhiêu năng lượng để bơi và do đó, chúng cần ăn bao nhiêu. Yếu tố này là sự nóng lên toàn cầu.

Theo các nhà nghiên cứu, Vịnh Maine là một trong những vùng nước nóng lên nhanh nhất trên thế giới.

“Sự di cư về phía bắc của Dòng chảy Vịnh và dao động phân tách trong lưu thông đại dương đã dẫn đến sự nóng lên chưa từng thấy ở Vịnh Maine giữa một điểm thấp vào năm 1969 và 2015, nơi khiến khu vực này vào top 1% các bất thường về nhiệt độ nước biển được ghi nhận”, các tác giả viết trong bài nghiên cứu của họ.

Và, nước càng ấm, cá càng cần nhiều năng lượng để bơi, điều đó có nghĩa là chúng ăn nhiều cá nhỏ hơn và cuối cùng có lượng hấp thụ và tích lũy methylmercury cao hơn.

Từ năm 2012 đến 2017, nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng cá ngừ vây xanh Đại Tây Dương đã xảy ra ​sự gia tăng nồng độ methylmercury lên tới 3,5% mỗi năm.

Các nhà nghiên cứu đưa ra dự đoán đáng sợ

Sử dụng tất cả các thông tin này, các nhà nghiên cứu đã có thể đưa ra một mô hình dự đoán sự gia tăng nồng độ methylmercury của cá sống ở biển.

Schartup giải thích: “Mô hình này cho phép chúng ta xem xét tất cả các thông số khác nhau ở cùng một thời điểm, giống như nó đang xảy ra trong thực tế”.

Mô hình này gợi ý rằng “đối với cá nhám gai 5 – [kilôgam]”, nhiệt độ tăng 1 ° C trong nước biển có thể dẫn đến “tăng 70% nồng độ methylmercury trên mô”. Đối với cá tuyết, mức tăng sẽ là 32% ​​ nồng độ methylmercury.

“Có thể dự đoán tương lai của mức thủy ngân trong cá là mục tiêu muốn hướng đến (Holy Grail) của việc nghiên cứu thủy ngân. Đó là một câu hỏi rất khó trả lời bởi vì mãi cho đến nay, chúng ta không hiểu rõ tại sao mức độ methylmercury lại quá cao ở cá lớn. ” – Amina Schartup.

Những nguy cơ biến món cá bổ dưỡng trở nên độc hại - Ảnh 3.

Amina Schartup – Tiến sĩ, Trợ lý giáo sư tại Viện Hải dương học Scripps

“Chúng tôi đã chỉ ra rằng những lợi ích của việc giảm phát thải thủy ngân, bất luận điều gì đang xảy ra trong hệ sinh thái. Nhưng, nếu chúng ta muốn tiếp tục giảm phơi nhiễm methylmercury trong tương lai, chúng ta cần một cách tiếp cận từ hai phía”, Giáo sư Sunderland nói thêm.

Những nguy cơ biến món cá bổ dưỡng trở nên độc hại - Ảnh 4.

Giáo sư Elsie Sunderland

“Biến đổi khí hậu sẽ làm trầm trọng thêm sự phơi nhiễm của con người với methylmercury thông qua hải sản, vì vậy để bảo vệ hệ sinh thái và sức khỏe con người, chúng ta cần điều tiết cả khí thải thủy ngân và khí thải nhà kính”, bà cảnh báo