Bánh cáy – quà quê bình dị của làng Nguyễn, Thái Bình

Qua đôi bàn tay khéo léo của người làng Nguyễn, Thái Bình, các nguyên liệu như gạo nếp, lạc, vừng, gấc, mỡ lợn, vỏ quýt… hòa quyện với nhau tạo nên thứ bánh quê dân dã, vừa béo, vừa bùi.

Nhắc tới Thái Bình, ngoài điểm đến chùa Keo cổ kính, đền Trần linh thiêng, du khách còn ấn tượng với nhiều món ăn ngon đậm chất quê dân dã. Ngoài canh cá Quỳnh Côi, nem chạo Vị Thủy, bún bung, nộm sứa hay bánh giò Bến Hiệp… thì bánh cáy cũng được xem là thức quà quê bình dị với không ít người.

Tên gọi của bánh bắt nguồn từ hạt nếp cái hoa vàng đem ngâm, trộn gấc đỏ đồ xôi, rồi ép dẻo, xắt hạt lựu lại đem phơi khô (có màu vàng giống trứng con cáy nên bánh có tên gọi là bánh cáy). Vùng Thái Bình có nhiều nơi làm bánh cáy nhưng nổi tiếng hơn cả vẫn là loại bánh có xuất xứ từ làng Nguyễn, thuộc xã Nguyên Xá, huyện Đông Hưng. Món bánh quê tuy giản dị nhưng đòi hỏi quy trình chế biến tỉ mỉ, công phu. Hiện, toàn xã có khoảng 300 hộ làm bánh, cho sản lượng 120-150 tấn mỗi tháng.

bánh cáy thái bình

Bánh cáy dẻo bùi, ngậy vị của làng Nguyễn, Thái Bình. Ảnh: Bizmedia.

Để làm được một mẻ bánh cáy, trước đó ít nhất khoảng nửa tháng, mỡ lợn đã được thái nhỏ hạt lựu rồi ướp trộn với đường cho thấm. Sau đó, gần đến lúc làm bánh, nguyên liệu này tiếp tục được đem xào cho đến khi khẩu mỡ đạt độ trong và giòn. Các phụ liệu như lạc, vừng cũng được bà con rang chín, xát nhẹ để bỏ vỏ. Cà rốt, gừng tươi, vỏ quýt tươi đem xào đường rồi để riêng.

Nếp làm bánh phải là loại nếp cái hoa vàng vừa thơm vừa dẻo. Nếp được chia làm 3 phần, trong đó, hai phần để nấu xôi, một phần để làm bỏng (còn gọi là làm nẻ). Gạo nấu xôi tiếp tục đem chia đôi, một nửa nấu xôi gấc cho màu đỏ và nửa còn lại nấu với nước quả dành dành để tạo màu vàng tươi. Sau khi hai loại xôi đã chín, người dân đem trộn với nhau rồi giã nhuyễn. Hỗn hợp quyện đều tiếp tục được cán mỏng, cắt thành lát nhỏ dài như mứt bí rồi sấy khô. Phần gạo nếp còn lại, người dân rang thành bỏng cho nở bung, sau đó sàng sẩy sạch trấu để có mớ nẻ dậy mùi thơm.

Sau khi đã sơ chế hoàn chỉnh, người làm đem hỗn hợp trên trộn đều với mật mía và đổ vào chảo, đảo đều tay cho tới khi dậy mùi thì múc vào khuôn gỗ đã lót sẵn vừng bên trong để tạo hình. Bánh khi cứng lại được lấy ra khỏi khuôn và khoác lớp “áo vừng” bóng bẩy bên ngoài.

Bánh cáy thành phẩm đạt chất lượng phải đảm bảo độ ngọt vừa phải, thơm mùi lạc, vừng rang, ngậy vị của mứt bí, độ béo của xôi, dừa và vị cay cay của gừng… Khi cắn miếng bánh, thực khách sẽ cảm nhận được sự hòa quyện hương vị dẻo thơm, ngậy, bùi của những nguyên liệu từ ruộng đồng. Ẩn sau mỗi miếng bánh là cả quá trình làm tỉ mẩn, chất chứa tấm quê chân tình của người dân làng Nguyễn.

Từ Ngọc Anh